Theo Bộ Quốc phòng Mỹ, mỗi ngày có 38 quân nhân bị tấn công tình dục trong quân đội và do các nạn nhân thường không lên tiếng, những kẻ phạm tội đã không bị trừng phạt.
Steve Stovey là một trong những nạn nhân như thế. Anh gia nhập Hải quân không lâu sau khi bước sang tuổi 25, với hy vọng được ra ngoài nhìn ngắm thế giới. Stovey nói với tạp chí GQ rằng trong một năm rưỡi đầu tiên, anh đã có những khoảng thời gian tuyệt vời. Tuy nhiên vào tháng 9/1999, anh đã bị tấn công tình dục tại một góc khuất trong kho chứa hàng của con tàu mà anh phục vụ.
Stovey vẫn còn nhớ rằng anh được điều đi lấy nhu yếu phẩm từ khu vực chứa hàng và không lâu sau đó, anh bị ba đồng đội tấn công. Những kẻ này chụp một chiếc bao vải màu đen lên đầu Stovey rồi lạm dụng tình dục anh. Anh đã phải lẩn trốn trong phòng tắm cho tới khi dịu bớt cơn đau.
Hai tuần sau, khi con tàu tới Hawaii, Stovey đã gặp lại cha đẻ. Anh nói rằng cuộc gặp gỡ mang tới hy vọng, khiến anh từ bỏ ý định tự sát mới nảy ra trong đầu. "Khi thấy cha, tôi có được cảm giác an toàn nhất từ trước tới nay" - anh kể. Tuy nhiên anh vẫn không thể cho cha biết về vụ lạm dụng.
Ước tính riêng năm 2012 đã có 14.000 quân nhân Mỹ bị tấn công tình dục.
"Một trong những lời đồn vẫn tồn tại cho rằng những kẻ phạm tội là người đồng tính, nhưng thực tế không phải vậy. Chuyện này không liên quan tới tình dục. Nó liên quan tới quyền lực và sự kiểm soát. Trong một nền văn hóa đề cao nam tính quá mức, điều tồi tệ nhất mà anh có thể làm với một gã đàn ông khác là gì? Buộc anh ta lâm vào hoàn cảnh bi đát mà một người phụ nữ thường gặp phải trong tình huống đó" - James Asbrand, một chuyên gia tâm lý ở tổ chức Các vấn đề cựu chiến binh Salt Lake City nhận xét.
Nạn nhân lên tiếng
Dana Chipman, người từng làm việc với vai trò Thẩm phán trong Lục quân Mỹ từ năm 2009 tới năm 2013 giải thích: "Cách chúng tôi xã hội hóa người lính có thể đã có tác động nhất định. Chúng tôi cắt tóc họ, cho họ mặc quần áo giống nhau, nói rằng họ không còn có sự riêng tư nào nữa, không còn có quyền cá nhân nào cả - chúng tôi sẽ khiến người lính trở về bản chất trần trụi rồi xây dựng lại họ theo hình ảnh của mình".
Trong một loạt cuộc phỏng vấn với giới chức quân đội, GQ nói rằng một số nạn nhân như Kole Welsh thuộc Lục quân Mỹ (phục vụ từ 2002 tới 2007) đã nhận lấy những vết sẹo vĩnh viễn về thể xác.
"Tôi đã để vụ tấn công trôi qua vì không muốn nó ảnh hưởng tới sự nghiệp của mình. Nhưng vẫn có những tổn hại còn sót lại. Một tháng rưỡi sau vụ tấn công, tôi được đưa vào một căn phòng với 9 viên sĩ quan và nghe thông tin bất ngờ: 'Anh đã có kết quả dương tính với HIV'. Tôi đã bị thải hồi khỏi quân đội chỉ trong vòng có một ngày. Đó là cú sốc lớn" - Welsh nói.
Matthew Own người phục vụ trong quân đội từ năm 1976 tới năm 1980 nói rằng anh đã cố gắng tha thứ cho những kẻ phạm tội với mình để sống bình thường trở lại, nhưng chuyện thật quá đỗi khó khăn.
"Tôi thường nghĩ về việc mình sẽ làm gì với chúng. Đầu tiên tôi sẽ trói chúng vào một cái bàn. Rồi tôi sẽ dùng một cây đèn khò và nướng chúng một cách chậm rãi, từ ngón chân lên tới đỉnh đầu. Anh có biết những suy nghĩ này đã ở lại bao lâu trong tâm trí tôi?" - Own nói.
Nghiên cứu thấy rằng nạn nhân bị chấn thương do bị tấn công tình dục trong quân đội (MST) thường được bị chẩn đoán sai thành rối loạn tâm lý thông thường và bị thải hồi khỏi quân đội. Như thế, họ sẽ không được chính quyền chăm sóc sức khỏe như những người lính bị chấn thương tâm lý do chiến tranh (PTSD).
Ước tính từ năm 2001 tới năm 2010, đã có 31.000 quân nhân bị thải hồi khỏi quân đội Mỹ với lý do rối loạn tâm lý. "Nếu họ muốn anh thành kẻ tâm thần phân liệt, anh sẽ bị đánh giá như vậy" - Trent Smith, một nạn nhân MST cho biết./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét